Khu VH-LS Các đảo Vịnh Hạ Long
Lịch sử hình thành Các đảo Vịnh Hạ Long được quy hoạch là khu bảo tồn các di tích văn hoá - lịch sử và cảnh quan quốc gia theo Quyết định số 313/VH-VP của Bộ Văn hoá Thông tin, ngày 28/4/1962 (ADB 1999). Các đảo Vịnh Hạ Long cũng có trong danh sách các khu rừng đặc dụng theo Quyết định số 194/CT, ngày 9/8/1986 của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) với diện tích 1.000 ha. Hiện nay, dự án đầu tư cho khu văn hoá lịch sử này vẫn chưa được xây dựng. Năm 1993, Chính phủ Việt Nam đã đề cử đưa Vịnh Hạ Long vào danh sách khu di sản thiên nhiên thế giới (World Heritage Site), và đến năm 1994, đã được Uỷ ban UNESCO công nhận. Toàn khu vực này có diện tích 43.400 ha, bao gồm 700 hòn đảo (ADB, 1999). Năm 1995, Vịnh Hạ Long, cùng với đảo Cát Bà, được Phân viện Hải Dương học Hải Phòng đề nghị đưa vào danh sách hệ thống các khu bảo tồn biển (Nguyễn Huy Yết và Võ Sĩ Tuấn, 1995). Năm 1999, Ngân hàng Phát triển Châu Ầ (ADB 1999) đề xuất thành lập một khu bảo vệ có tên là Khu cảnh quan thiên nhiên Vịnh Hạ Long rộng 155.300 ha. Cũng theo Ngân hàng Phát triển Châu Ầ (ADB, 1999), khu vực này do UBND Tỉnh Quảng Ninh quản lý thông qua Ban quản lý vịnh Hạ Long. Ban quản lý này còn chịu trách nhiệm quản lý Di sản văn hoá thế giới và không phải là Ban quản lý rừng đặc dụng. Các đảo Vịnh Hạ Long có trong danh lục các khu rừng đặc dụng Việt Nam đến năm 2010 được xây dựng bởi Cục Kiểm lâm - Bộ NN&PTNT với diện tích 1.000 ha (Cục Kiểm lâm, 2003), danh lục này hiện vẫn chưa được Chính phủ phê duyệt. Địa hình và thủy văn Tổng số có 1.969 các hòn đảo lớn nhỏ nằm trong vùng vịnh Hạ Long (ADB 1999). Về mặt địa chất, quần đảo này mang đặc thù là các vỉa đá vôi, được hình thành chủ yếu từ hai dạng chính là: oát-tơ fengcong và fenglin (Waltham 1998). Hàng loạt các đảo lớn hơn đạt tới độ cao trên 200 m. Mực nước trong vùng vịnh khá cạn, độ sâu chỉ đạt từ 6 đến 10 mét. Các hòn đảo đều không lưu giữ nước bề mặt. Đa dạng sinh học Công tác nghiên cứu Đa dạng sinh học vùng vịnh Hạ Long chỉ ở mức rất hạn chế, do vậy mà các thông tin về giá trị Đa dạng sinh học của vùng cũng còn ít. Các đảo trong vùng vịnh có rừng trên núi đá vôi, mặc dầu độ che phủ thường thưa và còn lại ở mức thấp do hậu quả tác động của con người và độ dốc của địa hình. Các đảo có khu hệ thực vật đa dạng, chứa đựng nhiều loài đặc hữu. Có thể là trong đợt điều tra hệ thực vật mới đây của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật và Tổ chức IUCN, đã phát hiện được 7 loài mới cho khoa học là: Livistona halongensis, Impatiens halongensis, Chirita halongensis, C. hiepii, C. modesta, Paraboea halongensis và Alpinia calcicola (Vietnam News 2000a). Các đảo vịnh Hạ Long có các loài động vật thân mềm rất đa dạng, có tới 60 loài đặc hữu thuộc khu vực này. Đặc biệt đáng chú ý là các loài cư trú trong các hốc đá tại đây có tính đa dạng rất cao (Vermeulen và Whitten, 1998). Các vấn đề về bảo tồn Hạ Long, Hải Phòng và Hà Nội là các thành phố trung tâm quan trọng của sự phát triển kinh tế ở miền Bắc Việt Nam. Sự phát triển kinh tế của các khu đô thị này cùng với sự vươn lên nhanh chóng của các khu vực phía Nam Trung Quốc, kể cả Hồng Kông đều dẫn đến sự gia tăng về sức ép của con người tới Vịnh Hạ Long. Khu vực ven biển Tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng hiện đang có mức tăng trưởng rất nhanh về sự phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt về mặt giao thông, tàu biển, khai thác than và các ngành du lịch, dịch vụ. Ngân hàng Phát triển Châu Ầ (ADB, 1999) cho rằng xây dựng một cảng mới ở vùng vịnh Hạ Long (cảng Cái Lân) có thể dẫn đến sự gia tăng về giao thông đường biển trong vùng, và phát triển cơ sở hạ tầng của du lịch sẽ là các mối đe dọa đối với vùng. Chất thải công nghiệp, và đánh bắt thuỷ sản cũng mang lại các đe dọa. Waltham (1998) lưu ý rằng cần tiếp tục xem xét một cách thận trọng về sự phát triển trong vùng vịnh thông qua cơ cấu quản lý đề cao các giá trị quan trọng về mặt môi trường của vùng. Các giá trị khác Vịnh Hạ Long là một trong các địa điểm du lịch ở Việt Nam đã và đang thu hút số lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước. Trong năm 1998 đã có 186.328 khách du lịch nội địa và 113.869 khách quốc tế tới vịnh Hạ Long (ADB 1999). Sự thu hút khách chủ yếu là cảnh quan ngoạn mục của các đảo nhấp nhô trong vịnh. Tên Hạ Long có nghĩa là rồng hạ cánh, và theo truyền thuyết của nhân dân địa phương thì các đảo này được hình thành bởi Lạc Long Quân và các con (Dodd và Lewis 1997). Thực tế vịnh Hạ Long được công nhận là một kỳ quan thế giới đã tăng thêm sự hấp dẫn của vùng đối với du khách. Các dự án có liên quan Chính phủ Việt Nam, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) đã triển khai nghiên cứu toàn diện về ô nhiễm môi trường tại vùng di sản thế giới và khu vực ven biển kế cận thành phố Hạ Long. Các nghiên cứu được tiến hành trong tháng 10 năm 1999 bằng việc điều tra khu vực có các nguồn gây ô nhiễm và các chất ô nhiễm điển hình, công việc này đã kết thúc năm 1999. Trong năm 2000, đại sứ Vương quốc Hà Lan đã tài trợ kinh phí biên soạn cuốn sách hướng dẫn các loài cây trên quần đảo vịnh Hạ Long, cuốn sách đã được Tổ chức IUCN hợp tác với Ban quản lý vịnh Hạ Long xuất bản. Mục đích của dự án là nâng cao nhận thức của du khách trong nước và quốc tế đối với các loài thực vật quan trọng đã tìm thấy trong vùng (Vietnam News 2000a). Trong dự án có tên "Xây dựng năng lực về quản lý môi trường ở Việt Nam", do Liên minh Châu Âu tài trợ, Trường đại học Free University, Brusel (Bỉ), Viện địa lý và đại học Khoa học Tự nhiên đang xây dựng cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin địa lý (GIS) cho Tỉnh Quảng Ninh, bao gồm cả khu vực Vịnh Hạ Long. Từ năm 2002, Tổ chức bảo tồn động thực vật Quốc tế tại Việt Nam (FFI) đã triển khai chương trình giáo dục môi trường tại vịnh Hạ Long với tài trợ của tập đoàn dầu lửa Anh Quốc (BP). Chương trình đã tập trung vào các đối tượng là học sinh tiểu học. Đánh giá nhu cầu bảo tồn Nhu cầu bảo tồn chưa được tiến hành đánh giá. Kế hoạch quản lý Kế hoạch quản lý chưa được xây dựng. Sự phù hợp với các tiêu chí VCF Các đảo Vịnh Hạ Long hiện không phù hợp với các mục đích đầu tư của VCF do khu vực không đáp ứng được các tiêu chí về tầm quan trọng Quốc tế về bảo tồn Đa dạng sinh học. Ngoài ra, đây chỉ là khu văn hoá lịch sử, chưa có các biện pháp quản lý bảo tồn thích hợp.
Thể hiện các nhu cầu xã hội Chưa có báo cáo thể hiện nhu cầu xã hội.
Tài liệu tham khảo ADB (1999) Draft coastal and marine protected areas plan. Hanoi: Asian Development Bank. Anon. (1997) "Report on the seminar on development planning for the Ha Long-Cat Ba tourism area, 28-30 April 1997". Ha Long: Quang Ninh Provincial People's Committee and Hai Phong City People's Committee. In Vietnamese. Anon. (1999) Ha Long bay: between myth and reality. Vietnam Cultural Window 13. Anon. (1999) Ha Long bay (Vietnam). Unpublished extract from draft report of the rapporteur, twenty-third session of the Bureau of the World Heritage Committee, 5-10 July 1999. Cheung, C.P.S. (1992) Report on a visit to the coasts of Vietnam. Unpublished report to WWF Asian Region. Deharveng, L. (1998) Ha Long bay biodiversity survey, Cave fauna. Unpublished report. Dodd, J. and Lewis, M. (1996) Vietnam: the rough guide. London: Rough Guides. Glover, I. C. and Ha Huu Nga (1998) Assessment of the archaeological resources of the World Heritage Site at Ha Long Bay, Quang Ninh province, Vietnam. Unpublished report to the Institute of Archaeology, University College London and the Institute of Archaeology, Hanoi. IUCN (2000) "Seven new plants discovered in Halong Bay World Heritage Site". Press release by IUCN Vietnam Office, 31 July 2000. In Vietnamese. IUCN (2000) Seven new plants discovered in Halong Bay, World Heritage Site. Press release by IUCN Vietnam Office, 31 July 2000. KNCCN, IEBR and HNU (1997) Ecosystem and biodiversity of Cat Ba National Park and Ha Long bay, Vietnam. Seoul: The Korean National Council for Conservation of Nature, the Institute of Ecology and Biological Resources, Hanoi, and Hanoi National University. Nguyen Chu Hoi, Nguyen Huy Yet and Dang Ngoc Thanh (1998) "Scientific basis for marine protected areas planning". Hai Phong: Hai Phong Institute of Oceanography. In Vietnamese. Nguyen Huy Yet and Vo Si Tuan (1995) "Information on proposed marine protected areas on the coast of Vietnam". Hai Phong: Hai Phong Institute of Oceanography. In Vietnamese. Nguyen Tien Hiep, Kiew, R. and Gibbs, W. (2000) Wild plants of Ha Long bay. Hanoi: Thanh Nhien Publishing House. In English and Vietnamese. Storey, R. and Robinson, D. (1995) Lonely planet travel survival kit: Vietnam. Third edition. Hawthorn: Lonely Planet Publications. Vermeulen, J. J. and Whitten, A. J. (1998) Land and freshwater molluscs of the karst regions ENE of Haiphong and the Cuc Phuong National Park, northern Vietnam. Unpublished report to IUCN Vietnam, Fauna and Flora International Indochina Programme and the Management Authorities of Ha Long Bay World Heritage Site and Cat Ba and Cuc Phuong National Parks. Vietnam News (2000) Seven new species mark Ha Long's botanic bounty. Vietnam News 1 August 2000. Vietnam News (2000) Ha Long eco-museum to involve public. Vietnam News 1 September 2000. Vietnam News Agency (2000) Ha Long bay listed UNESCO's world geological heritage. Press release by Vietnam News Agency, December 2000. Vietnam News Agency (2000) Vietnam's Ha Long bay applies for geological heritage listing. Press release by Vietnam News Agency, 6 September 2000. Waltham, T. (1998) Limestone karst of Ha Long Bay, Vietnam: an assessment of the karst geomorphology of the World Heritage Site. Unpublished report to Nottingham Trent University. | ||||||||||||||||||||||||||||