Khu Đề xuất BTTN Earal

Tên khác:

Thông Nước

Tỉnh:

Đăk Lăk

Diện tích:

50 ha

Tọa độ:

13°09' N, 108°18' E

Vùng sinh thái nông nghiệp:

Tây Nguyên

Có quyết định của Chính phủ:

Chưa

Đã thành lập Ban Quản lý:

Đã được xây dựng kế hoạch đầu tư:

Không

Đáp ứng các tiêu chí của VCF:

B, C

Đáp ứng các tiêu chí xã hội:

Không

Báo cáo đánh giá nhu cầu bảo tồn:

Không

Kế hoạch quản lý:
Không

Đánh giá công cụ theo dõi:

Không

Có bản đồ vùng:

Không


Lịch sử hình thành

Khu Earal không có tên trong các quyết định chính thức của Chính phủ liên quan đến hệ thống rừng đặc dụng của cả nước. Tuy nhiên, theo Quyết định số 157/QĐ-UB, ngày 05/05/1994, UBND tỉnh Đăk Lăk đã phê chuẩn việc thành lập khu bảo vệ có diện tích 50 ha để bảo vệ quần thể thông nước Glyptostrobus pensilis còn lại cuối cùng ở Việt Nam (Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đăk Lăk 1998). Theo Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk (2000), Ban quản lý gồm có 2 người cũng đã thành lập trực thuộc Chi cục Kiểm lâm.

Earal có tên trong danh lục các khu rừng đặc dụng Việt Nam đến năm 2010 được Cục Kiểm lâm - Bộ NN&PTNT xây dựng với diện tích 50 ha (Cục Kiểm lâm, 2003), danh lục này hiện vẫn chưa được Chính phủ phê duyệt.

Địa hình và thủy văn

Khu đề xuất bảo tồn thiên nhiên Earal nằm trên địa bàn xã Earal, huyện Ea H'Leo, tỉnh Đăk Lăk, độ cao khu vực khoảng 530m. Đây là một vùng ngập nước bao quanh bởi các vùng trồng cà phê (Vũ Văn Dũng, 2000).

Đa dạng sinh học

Trước đây, loài G. pensilis phân bố ở nhiều tỉnh của Việt Nam (Vũ Văn Dũng, 2000) nhưng hiện tại đây là một trong các loài cây đang bị đe dọa tuyệt chủng nặng nề nhất ở nước ta, chỉ biết được hai quần thể còn tồn tại. Khu bảo tồn Earal có 220 cá thể, trong khi đó ở khu bảo tồn thiên nhiên Trấp K'sơ cũng mới được đề xuất chỉ còn lại 34 cá thể (Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đăk Lăk 1998) (xem phiếu thông tin Trấp K’sơ)

Các vấn đề về bảo tồn

Các mối đe doạ chủ yếu đối với quần thể thông nước G. pensilis là nạn cháy rừng vào mùa khô và lũ lụt trong mùa mưa (Theo lời Vũ Văn Dũng, 2000). Cần phải có thêm diện tích vùng đệm cho khu vực này (Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk 2000), dân cư phân bố ở gần trung tâm khu vực có thể đe dọa tới công tác quản lý bảo vệ. Một trạm bảo vệ được xây dựng ở ngay khu này và chương trình điều tiết nước được hoàn thiện nhằm mục đích hạ thấp bớt mức nước trong vùng để bảo vệ quần thể thông nước G. pensilis (Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đăk Lăk 1998, Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk, 2000).

Các giá trị khác

Không có thông tin.

Các dự án có liên quan

Không có thông tin.

Đánh giá nhu cầu bảo tồn

Nhu cầu bảo tồn chưa được tiến hành đánh giá.

Kế hoạch quản lý

Kế hoạch quản lý chưa được xây dựng.

Sự phù hợp với các tiêu chí VCF

Earal hiện không phù hợp để nhận tài trợ của VCF do không có tầm quan trọng Quốc tế trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Earal nằm trong cảnh quan ưu tiên DF4 - Rừng khô hạn vùng đồng bằng phía đông, tuy nhiên khu vực được đánh giá có giá trị bảo tồn thấp (Tordoff et al. đang soạn thảo.).

Tiêu chí

Sự phù hợp

AI

 

AII

 

BI

Đề xuất rừng đặc dụng

BII

Bảo tồn thiên nhiên

BIII

Chịu sự quản lý của UBND tỉnh

CI

Ban quản lý đã thành lập

CII

 

Thể hiện các nhu cầu xã hội

Chưa có báo cáo thể hiện nhu cầu xã hội.

Tiêu chí

Sự phù hợp

A

 

B

 

C

 

D

 

Tài liệu tham khảo

Dak Lak Provincial FPD (1998) "Report on implementation of management and conservation plan for Glyptostrobus pensilis populations in Dak Lak province". Unpublished report to Dak Lak Provincial People's Committee. In Vietnamese.

Tordoff, A. W., Timmins, R, J., Maxwell, A., Huy Keavuth, Lic Vuthy, Khou Eang Hout and Walston, J. eds. (in prep.) Biological assessment of the Lower Mekong Dry Forests Ecoregion: final report.


Click here to download pdf file