Khu BTTN Nam Ca
Lịch sử hình thành Nam Ca là khu bảo tồn thiên nhiên theo Quyết định số 194/CT ngày 9/8/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính Phủ), với diện tích 20.000 ha, lấy tên là Quảng Xuyên (Bộ NN&PTNT, 1997). Dự án đầu tư đã được hoàn thành bởi Chi cục Kiểm lâm Đăk Lăk, đã được Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk và Bộ Lâm nghiệp (trước đây) phê chuẩn trong năm 1991 (Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk, 2000). Tổng diện tích khu bảo tồn được ghi trong dự án đầu tư là 24.555 ha (Bộ NN&PTNT, 1998). Sau đó, ngày 15/11/1991 Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã có quyết định thành lập Ban quản lý khu bảo tồn (Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk, 2000). Theo Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk (2000), Khu Bảo tồn Thiên nhiên Nam Ca hiện nay có diện tích là 33.555 ha, bao gồm phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 17.700 ha, phân khu phục hồi sinh thái 6.125 ha, và phân khu hành chính dịch vụ rộng 9.530 ha. Ngoài ra có 8.400 ha thuộc vùng đệm. Hiện nay, khu bảo tồn thiên nhiên Nam Ca do Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk quản lý (Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk, 2000). Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Ca có trong danh lục các khu rừng đặc dụng Việt Nam đến năm 2010 được xây dựng bởi Cục Kiểm lâm - Bộ NN&PTNT với diện tích 24.555 ha (Cục Kiểm lâm, 2003), danh lục này hiện vẫn chưa được Chính phủ phê duyệt. Địa hình và thủy văn Khu BTTN Nam Ca thuộc các huyện Krông Nô và huyện Lắc, tỉnh Đăk Lăk. Khu bảo tồn nằm trên vùng đồi núi, địa hình có độ cao khoảng từ 430m ở phía tây bắc lên đến 1.294 m ở đỉnh núi Nam Ca phía đông nam. Phía tây khu bảo tồn có nhiều hồ tự nhiên, lớn nhất là hồ Ea R'Bine. Tất cả các hồ đều đổ nước về sông Krông Nô, là một nhánh của sông Srêpôk. Đa dạng sinh học Theo Phạm Trọng Ảnh et al. (1990), rừng phân bố ở các đai độ cao trên khoảng 500 m chiếm 75% diện tích khu bảo tồn. Trong thời gian điều tra về khu hệ động vật do Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật tổ chức vào năm 1990, tại Khu BTTN Nam Ca đã phát hiện được 56 loài thú, 140 loài chim, 34 loài bò sát và 16 loài ếch nhái. Trong số đó có các loài đang bị đe dọa trên toàn cầu như Vượn đen má hung Hylobates gabriellae và Gấu ngựa Ursus thibetanus (Phạm Trọng Ảnh et al. 1990). Tuy nhiên, tình trạng hiện nay của chúng không rõ. Các vấn đề về bảo tồn Theo Sở NN&PTNT tỉnh Đăk Lăk (2000), các mối đe doạ chủ yếu đối với đa dạng sinh học ở Khu BTTN Nam Ca là hiện tượng chặt gỗ trộm, săn bắn và khai thác quá mức tài nguyên rừng. Khu bảo tồn hiện có 17 cán bộ nhân viên làm việc tại Ban quản lý và 3 trạm bảo vệ. Các giá trị khác Chưa có thông tin. Các dự án có liên quan Chưa có thông tin. Đánh giá nhu cầu bảo tồn Nhu cầu bảo tồn chưa được đánh giá. Kế hoạch quản lý Khu vực chưa xây dựng được kế hoạch quản lý. Sự phù hợp với các tiêu chí VCF Nam Ca hiện không phù hợp để được nhận tài trợ VCF do không đáp ứng được các tiêu chí về tầm quan trọng quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học.
Thể hiện các nhu cầu xã hội Chưa có báo cáo thể hiện nhu cầu xã hội.
Tài liệu tham khảo Pham Trong Anh, Hoang Minh Khien and Le Dinh Thuy (1990) "Wildlife resources in Nam Ca forest, Dak Lak province". Buon Ma Thuot: Institute of Ecology and Biological Resources. In Vietnamese. | ||||||||||||||||||||||||||||